“Đại gian hùng” Tào Tháo là một trong những nhà chính trị, quân sự nổi tiếng của Trung Hoa. Dù mang tiếng đa nghi, gian trá, ông vẫn được đánh giá là người dũng cảm, mưu trí hơn người.
Càng nhiều chiến thắng, quy mô quân đội Tào Ngụy càng được mở rộng, các nhân tài quân sự cũng dần lộ diện, mà sự phức tạp trong đó cũng dần hiện rõ.
Quá trình phát triển của một đội quân non trẻ đương nhiên phải bao gồm: chiến đấu, thu nạp hàng binh, chỉnh hợp, phân binh đặt chức, tăng quân số… Các giai đoạn này không ngừng lặp đi lặp lại cùng với đà thăng tiến quân sự.
Càng nhiều chiến thắng, quy mô quân đội Tào Ngụy càng được mở rộng, các nhân tài quân sự cũng dần lộ diện, mà sự phức tạp trong đó cũng dần hiện rõ.
“Nguyên lão công thần” từ buổi đầu gian khó
Trong những ngày đầu khởi sự, uy vọng của Tào Tháo chưa đủ lớn, mà tài cầm quân cũng còn hạn chế. Vì thế, đi mộ binh thì binh đào ngũ, đi đánh trận thì thắng ít thua nhiều. Rất may là xung quanh Tào Tháo không thiếu những tướng lĩnh trung kiên đi theo ông ta từ ngày đầu.
Bộ chính sử Tam Quốc Chí không mô tả rõ mốc thời gian tham gia quân Tào của hầu hết các tướng lĩnh. Dù vậy, vẫn có người đến trước, có người đến sau. Các tướng lĩnh cấp cao đầu tiên trong trận doanh Tào quân có thể kể đến Tào Hồng, Tào Nhân,Hạ Hầu Đôn, Hạ Hầu Uyên, Nhạc Tiến, Lý Điển, Vu Cấm.
Những người này đều có công tích nhất định. Tào Hồng từng nhường ngựa cứu mạng Tào Tháo với câu nói nổi tiếng “thiên hạ có thể không có Hồng, nhưng chẳng thể không có ông”.
Hạ Hầu Đôn và Tào Nhân đối với Tào Tháo giống như Quan Vũ, Trương Phi đối với Lưu Bị: khi Tào Tháo phân binh, Đôn và Nhân luôn nắm một đội, là hai người có khả năng độc trấn một phương. Hạ Hầu Uyên, Vu Cấm, Nhạc Tiến nổi bật ở sự xông xáo, tham gia chiến dịch vào loại nhiều nhất. Lý Điển tham gia rất sớm, từng phá giặc Khăn Vàng ở Duyện Châu.
Lực lượng tướng lĩnh trung kiên này chính là những người có được sự tin tưởng lớn nhất của Tào Tháo. Vậy còn những người đến sau?
“Hàng tướng đến sau” và chuyện mới cũ
Tào Tháo nổi tiếng là khao khát nhân tài. Ở đâu có nhân tài, ông ta đều nghĩ cách lôi kéo. Càng đánh bại nhiều đối thủ, ông ta càng thu nạp được nhiều hàng tướng.
Đánh bại Dương Phụng, Tào Tháo thu được Từ Hoảng. Đánh bại Lữ Bố, ông ta có được Trương Liêu. Đánh bại Viên Thiệu, Tào Tháo hàng phục Trương Cáp. Tiến chiếm Kinh Châu, ông chiêu dụ Văn Sính. Bình định Hán Trung, Tào Tháo thu nạp Bàng Đức…
Những chiến tướng nổi tiếng trong quân đội Tào Ngụy giai đoạn sau chủ yếu xuất thân là hàng tướng. Nhưng những người này cũng không hẳn giống nhau.
Từ Hoảng, Trương Liêu, Trương Cáp, Bàng Đức khi quy hàng Tào Tháo chỉ có một mình, chính là dạng tướng lĩnh “bạch thân”, tức là ngoài bản thân ra thì không có thế lực nào đi kèm. Trong khi đó, Trương Tú ở Uyển thành hàng Tào thì dẫn theo bộ khúc cũ ở Lương Châu, Tang Bá ở Thái Sơn hàng Tào thì đi kèm là bộ khúc cũ của Từ Châu.
Không phải hàng tướng mà chủ động dẫn quân tới gia nhập thì có Lý Thông ở Nhữ Nam, Lý Điển ở Sơn Dương. Lại có hàng tướng nhưng đã tạo dựng được uy vọng, thế lực bám rễ ở địa phương như Văn Sính.
Điểm lại con đường thăng tiến của bộ phận “hàng tướng” này, mới thấy dẫu công tích của họ không hề thua kém lực lượng tướng lĩnh “nguyên lão”, nhưng quân hàm và tước vị của họ đều thấp hơn một cấp.
Trương Liêu dẫn tám trăm dũng sĩ hù vỡ mật mười vạn đại quân của Tôn Quyền, uy chấn thiên hạ, khiến người Ngô khiếp sợ mãi đến sau này. Trần Thọ bình phẩm tướng Ngụy, dựa vào công trạng đã đặt tên Liêu ở đầu.
Nhưng thực tế thì dưới thời Tào Tháo; cả Vu Cấm và Nhạc Tiến đều giữ chức Tả, Hữu Tướng quân trong khi Liêu sau trận chiến Hợp Phì mới được phong làm Chinh Đông Tướng quân, dưới Vu, Nhạc hai người một cấp, càng không cần phải nói đến Từ Hoảng, Trương Cáp bấy giờ chỉ là Bình Khấu, Đãng Khấu Tướng quân, dưới Liêu một cấp.
Kỳ thực cũng không có gì quá khó hiểu. Tào Tháo dùng người trọng thân sơ, Vu Cấm, Nhạc Tiến là những người theo Tháo từ buổi đầu, Trương Liêu, Từ Hoảng, Trương Cáp là những hàng tướng sau này, địa vị tự nhiên không thể đánh đồng.
Đây cũng có thể là cách mà ông chủ Tào “bóc lột sức lao động” của “nhân viên mới”: thân là hàng tướng, càng cần phải nỗ lực hơn kẻ khác nhiều lần.
Quân đoàn trưởng và vấn đề tín nhiệm
Tào Tháo vốn nổi tiếng với tài dùng người “dùng thì không nghi” và “có tài là dùng”, nhưng dùng thế nào lại là chuyện khác. Nói về tín nhiệm, các tướng lĩnh “đến sau”không thể nào xếp trước mấy người họ hàng thân thích như Hạ Hầu Đôn, Tào Nhân, Tào Hồng, Hạ Hầu Uyên…
Thử xét biên chế Tào quân ở trận Quan Độ, khi đó Tào quân quy mô còn chưa lớn, đại khái có thể chia làm ba quân đoàn chính. Hạ Hầu Đôn trấn thủ Lạc Dương là một quân đoàn độc lập. Tang Bá và Tôn Quan trấn thủ Thanh Châu, Từ Châu, tự thành một quân đoàn phía Đông.
Tào Tháo tự thống lĩnh trung quân, lại trực tiếp chỉ huy hai quân đoàn bán độc lập khác do Tào Nhân và Hạ Hầu Uyên tiết chế: việc phòng bị Dĩnh Xuyên giao cho Tào Nhân tiến hành du kích tại khắp các khu vực xung quanh, lại tăng phái Từ Hoảng, Sử Hoán; cùng lúc, việc phụ trách vận chuyển, đốc thúc lương thảo do Hạ Hầu Uyên là Thái thú Dĩnh Xuyên toàn quyền quyết định. Đây là bộ khung cơ bản.
Trừ hai nhân vật sở hữu bộ khúc sẵn có là Tang Bá và Tôn Quan; thì toàn bộ nhân thủ quan trọng đều là các “nguyên lão”, các vị trí lãnh binh nếu không phải họ Tào thì cũng họ Hạ Hầu.
Còn các hàng tướng như Trương Liêu, Từ Hoảng; thậm chí các tướng lĩnh “bạch thân” như Vu Cấm, Nhạc Tiến, ở thời kỳ này binh lực đều chỉ có từ một đến ba ngàn; trong khi Tào Nhân, Hạ Hầu Đôn có thể thống lĩnh binh lực phải vượt trên năm ngàn. Sau khi Tào Tháo bình định phương Bắc, khi Trương Liêu, Từ Hoảng có thể thống lĩnh năm ngàn binh mã thì Tào Nhân đã có thể điều động ba bốn vạn binh mã.
Dù không đến mức phân bè chia phái, nhưng rõ ràng trong quân đội Tào Ngụy có tồn tại cái gọi là “thứ bậc”, với sự phân cấp rõ ràng về quân hàm và tước vị. Điều này càng được minh họa rõ hơn qua trường hợp của “Ngũ hổ tướng” nhà Ngụy”.
Những bài học lãnh đạo từ những tài lược xuất thần của Tào Tháo
1. Kẻ làm việc lớn, trước tiên là phải dám làm chứ không phải ngồi khóc lóc.
Đổng Trác vào kinh đô Lạc Dương, bắt ép thiên tử, điều khiển triều đình, gây họa bách tính, trong ngoài triều không ai không nghiến răng căm giận. Vương Doãn bí mật họp các quan viên kể tội Đổng Trác, ai nấy nghe Vương Doãn nói xong đều khóc lóc thương cảm, duy có Tào Tháo cười lớn, rồi xin mượn Thất Tinh đao một mình đi hành thích Đổng Trác.
2. Trong lúc nguy hiểm cần tỉnh táo và phản ứng nhanh nhạy, nếu không khó toàn tính mạng.
Tào Tháo vào bái kiến Đổng Trác, đúng lúc Đổng Trác đang ngủ trưa. Đương lúc Tào Tháo rút dao định đâm Đổng Trác thì Trác tỉnh dậy hỏi “Mạnh Đức định làm gì?”. Tháo vội quỳ sụp xuống, hai tay dâng dao, rằng “đây là Thất Tinh bảo đao, muốn dâng thừa tướng”, rồi nhân lúc Trác chưa phát hiện ra, lên ngựa bỏ chạy ra ngoài thành.
3. Nắm giữ vị trí trung tâm, chiếm thế thượng phong, càng ở chức cao càng cần khôn khéo, biết điểm dừng, không vượt quá, đó mới là lãnh đạo giỏi.
Đổng Trác lập Hán Hiến Đế lên ngôi, ép thiên tử mà làm loạn triều chính, hung tàn bạo ngược, cuối cùng bị giết. Viên Thuật tự lập làm vua, tham lam ngu tối, sau cùng tự sát. Viên Thiệu muốn lập vua mới, rồi cuối cùng đại bại.
Chỉ có Tào Tháo vẫn phò Hán, khôn khéo nâng đỡ thiên tử mà chính sự vẫn nắm trong tay, ép thiên tử để lệnh chư hầu, bản thân làm thừa tướng chứ không soán ngôi tự lập, thành hùng chủ một phương.
4. Tự mình phải làm gương, nhưng đừng tự hại tính mạng của mình.
Tào Tháo cất quân đánh Viên Thiệu, xe ngựa qua ruộng lúa, bỗng con ngựa giật mình chạy vào ruộng lúa. Tào Tháo nói “trước khi xuất quân ta có lệnh, đang mùa thu hoạch, quân đội không được đi vào ruộng lúa.
Nay ta trái quân lệnh, nên xử tử!” Rồi rút kiếm đặt lên cổ. Các tướng quỳ xuống can ngăn, Tháo mới cắt búi tóc thay thủ cấp, để răn tướng sĩ.
5. Dùng người thì không nghi, nghi người thì không dùng.
Tào Tháo và Viên Thiệu chống nhau ở Quan Độ, quân Tào sắp cạn lương, quân Viên Thiệu hay đến tập kích. Viên Thiệu có cơ hội để đánh Tào Tháo, nhưng vì không nghe lời Hứa Du, bỏ lỡ thời cơ, Hứa Du cũng bỏ sang doanh Tào.
Tào Tháo nghe tin Hứa Du đến, không kịp đi giày, chân không ra đón tiếp, sau đó hoàn toàn tin tưởng mưu kế của Hứa Du, đại phá quân của Thiệu tại Quan Độ.
6. Tha được thì nên tha, cần giết thì phải giết.
Đánh xong Viên Thiệu, quân Tào phát hiện có rất nhiều thư từ của quan viên bên Tào gửi cho Viên Thiệu. Tào Tháo xem rồi ra lệnh đốt hết, không truy cứu. Còn nhớ lúc trước, cùng Trần Cung bỏ trốn, Tào Tháo giết nhầm cả nhà Lã Bá Sa.
Lúc Lã Bá Sa mua rượu về, Tào Tháo giết nốt để khỏi bị lộ, rồi than rằng: “Ta thà phụ người, không để người phụ ta” (lưu ý: không phải như trong tiểu thuyết miêu tả, Tào Tháo không hề nói “Ta thà phụ người trong thiên hạ, không để người trong thiên hạ phụ ta”. Tào Tháo không nói tất cả người thiên hạ, mà chỉ nói riêng Lã Bá Sa, đó là lời than khi buộc phải giết người thân vì lâm vào đường cùng).
7. Thiện đãi hiền tài, tất có người phò trợ.
Quan Vũ bị bức phải quy Tào, nhưng “thân tại Tào doanh tâm tại Hán”, giao ước trước với Tào Tháo rằng hễ có tin của Lưu Bị là lập tức về với Lưu Bị. Tào Tháo một mặt đồng ý, một mặt trọng đãi Quan Vũ.
Đến lúc Quan Vũ treo ấn bỏ đi, qua ải chém tướng, Tào Tháo cũng không dẫn quân đuổi theo, ngược lại, còn đưa giấy thông quan, lệnh các tướng không ai được cản trở Quan Vũ. Tuy Quan Vũ không về với Tào Tháo, nhưng các tướng giỏi không ai phản lại Tào Tháo.
8. Hiểu thiên văn địa lí, thế lực hùng mạnh, nhưng tự coi mình là thông minh, khinh thường địch thủ thì kiêu binh tất bại.
Thủy quân Tào Tháo bày trận ở Xích Bích, quân lính không quen đánh thủy, say sóng nhiều, liền dùng xích lớn nối liền chiến thuyền lại. Có người khuyên không nên nối thuyền, lỡ quân Ngô dùng hỏa công thì bất lợi, Tháo không nghe, cho rằng đang mùa đông chỉ có gió bắc, quân Ngô phóng hỏa thì ngược gió.
Đến lúc trời nổi gió đông, Tháo vẫn cho rằng đến tiết đông chí, dương khí thăng nên trời có gió đông, kết quả chỉ cần một đêm gió đông, thủy quân Tào đã tan tác. Đó là trận Xích Bích nổi tiếng. Tuy chỉ có một đêm gió đông, nhưng Chu Du và Gia Cát Lượng biết lợi dụng, còn Tào Tháo không biết đề phòng.
9. Lúc chết người ta nói lời thiện, công danh chỉ là mây khói trước mắt, người đời sau tự khắc bình xét, đừng quan tâm quá đến miệng lưỡi thế gian, anh hùng cũng được, gian tặc cũng được, mà gian hùng càng hay.
Anh hùng lúc lâm chung thường dặn dò người sống nối chí mình mà dựng nghiệp lớn, bình thiên hạ. Tào Tháo lúc lâm chung cũng chỉ dặn dò việc gia đình, dặn gia nô tì thiếp học lấy một nghề, sau này gia cảnh suy vi cũng không đến nỗi đói khổ.
Cả đời Tào Tháo thắng có bại có, nhưng Tào Tháo không nuối tiếc chuyện chiến trường, chỉ tiếc có 2 việc: một là vợ cả tức giận mà bỏ về nhà bố mẹ đẻ, hai là con trưởng Tào Ngang chết trận.
Theo Tiền Phong, Trí thức trẻ