Bên cạnh vai trò kiến tạo nước Mỹ, cả ba nhà tài phiệt John D. Rockefeller Sr., Andrew Carnegie và J.P Morgan cũng gây ra nhiều tranh cãi, bởi trên con đường làm giàu của họ dẫn đến nhiều hệ lụy bi thảm mà cộng đồng phải gánh chịu.
Ba vị vua
Cuối thế kỷ 19, sau những ngày tháng thăng hoa của vua đường sắt Cornelius Vanderbilt (1794 – 1877), nước Mỹ bắt đầu chứng kiến sự vươn lên của 3 “ông vua” có tổng tài sản quy đổi ra giá trị ngày nay xấp xỉ 1.000 tỉ USD, giàu hơn vài chục người giàu nhất thế giới hiện tại cộng lại.
Trong đó, vua dầu mỏ John D. Rockefeller Sr. (1839 – 1937) sinh ra trong một gia đình mang nhiều dòng máu Đức, Anh và Ireland… Từ nhỏ, ông đã thể hiện rõ tham vọng trở thành một doanh nhân thành đạt, thử bán nhiều món hàng lặt vặt như khoai tây, kẹo… cho hàng xóm.
Năm 16 tuổi, Rockefeller bắt đầu đi làm trong vị trí trợ lý kế toán cho một doanh nghiệp nhỏ, rồi từ từ tích cóp. Bốn năm sau, ông bắt đầu góp vốn với một người bạn để bắt đầu khởi nghiệp, ban đầu là kinh doanh thực phẩm.
Đến năm 1863, Rockefeller và bạn bắt đầu chuyển hướng đầu tư, xây dựng một nhà máy lọc dầu ở Cleveland (bang Ohio). Nếu các đối thủ kinh doanh khác nghĩ đến việc khai thác dầu mỏ thì Rockefeller lại hướng đến việc lọc dầu nhằm giảm thiểu rủi ro, gia tăng lợi nhuận.

Đến năm 1870, ông thành lập Công ty Standard Oil rồi nhanh chóng phát triển mạnh, thậm chí kiểm soát 90% cơ sở lọc dầu và đường ống dẫn dầu cả nước Mỹ. Rockefeller còn góp phần hình thành nên công nghiệp lọc dầu tại Mỹ.
Tuy nhiên, chính sự phát triển quá lớn của Standard Oil khiến công ty này gặp phải nhiều chỉ trích về lũng đoạn và thao túng. Năm 1911, Standard Oil bị tòa án phán quyết phải giải thể thành 34 công ty con, nhưng tất nhiên Rockefeller có cổ phần khá lớn ở từng công ty.
Từ 34 công ty nhỏ này về sau phát triển thành những tên tuổi lẫy lừng như Exxon Mobil, Chevron… Đến lúc qua đời, Rockefeller vẫn rất giàu, ước chừng tài sản của ông lên đến trên 300 tỉ USD tính theo giá trị hiện nay, được đóng góp cho vô số trường học, quỹ từ thiện cũng như xây dựng thư viện khắp thế giới.

Giống như Rockefeller, vua sắt thép Andrew Carnegie (1835-1919) cũng sinh ra trong gia đình nghèo, di cư từ Scotland. Thời trai trẻ nơi xứ người, Carnegie làm qua nhiều công việc khác nhau để kiếm sống nhưng rồi dần gầy dựng cơ đồ khi đi theo một “đại gia” của ngành đường sắt lúc bấy giờ.
Năm 1859, ông nằm trong đội ngũ quản lý của công ty đường sắt Pennsylvania. Từ vị trí này, Carnegie đã tạo ra nhiều lợi nhuận cho công ty nhờ vào các khoản đầu tư trong các lĩnh vực than đá, sắt…
Về sau, ông muốn có sự nghiệp kinh doanh riêng nên rời khỏi công ty trên vào năm 1865. Giữa bối cảnh ngành đường sắt Mỹ đang phát triển mạnh, ông bỏ vốn đầu tư công ty chuyên xây dựng cầu sắt và công ty điện báo.
Đến thập niên 1870, Carnegie thành lập công ty thép và mở rộng mạng lưới kinh doanh, nối kết cả mảng vật liệu thô, sản xuất và vận chuyển. Năm 1892, ông hợp nhất các mảng kinh doanh để cho ra đời Công ty thép Carnegie, một đế chế thực sự của ngành sắt thép Mỹ.
Tuy nhiên, vào năm 1901, Carnegie đã bán Công ty thép Carnegie cho J.P. Morgan với giá 480 triệu USD (tương đương 300 tỉ USD tính theo giá trị ngày nay). Sau đó, Morgan sáp nhập Công ty thép Carnegie với mảng kinh doanh thép của mình để hình thành Công ty thép Mỹ – công ty đầu tiên trị giá 1 tỉ USD trên thế giới. Từ thương vụ trên, Carnegie trở thành người giàu nhất thế giới khi đó.

Khác với 2 tỉ phú trên, vua nhà băng J.P Morgan (1837 – 1913) thì được sinh ra trong gia đình vốn có cơ ngơi kinh doanh khá lớn. Năm 1858, sau khi học tập và làm việc tại châu Âu, Morgan quay trở lại New York (Mỹ) và nhanh chóng phát triển sự nghiệp trong ngành ngân hàng.
Đến năm 1871, ông cùng Anthony Drexel (1826-1893) sáng lập nên doanh nghiệp Drexel, Morgan & Company. Sau khi Drexel qua đời, doanh nghiệp này đổi tên thành J. P. Morgan & Company. Dần dần, Morgan gần như kiểm soát toàn bộ ngành ngân hàng Mỹ.
Bên cạnh việc bành trướng trong lĩnh vực ngân hàng, chính Morgan là người giúp cho những ý tưởng của nhà phát minh Thomas Edison thăng hoa. Ông đã góp vốn để hình thành công ty Edison General Electric cung cấp điện ở nhiều nơi tại Mỹ.
Về sau, Morgan “hất cẳng” Edison ra khỏi công ty và hợp nhất với công ty Thomson – Houston Electric để hợp nhất thành General Electric.
J.P. Morgan còn tiếp quản kinh doanh sắt thép từ người cha, rồi từ từ phát triển và thâu tóm cả công ty của vua sắt thép Andrew Carnegie. Thời cao trào, ông kiểm soát đến 42 đại công ty. Đặc biệt, Morgan gần như trở thành “kiến trúc sư trưởng” của chương trình ứng cứu khi Mỹ gặp khủng hoảng tài chính năm 1907.
Tuy nhiên, sau đó, ông bị chỉ trích đã lợi dụng khủng hoảng trên để thu lợi. Cũng từ sự kiện này, sau đó nước Mỹ thành lập ngân hàng trung ương: Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED).
Thao túng bầu cử tổng thống
Để duy trì quyền lực kinh doanh, bộ ba nhà tài phiệt John D. Rockefeller Sr., Andrew Carnegie và J.P Morgan đã phối hợp để đưa William McKinley trở thành Tổng thống Mỹ thứ 25.
Bên cạnh vai trò kiến tạo nước Mỹ, cả ba nhà tài phiệt trên cũng gây ra nhiều tranh cãi, bởi trên con đường làm giàu của họ dẫn đến nhiều hệ lụy bi thảm mà cộng đồng phải gánh chịu.

Bóc lột tàn tệ
Sức ép cạnh tranh và tham vọng tăng cao lợi nhuận đã khiến cho các nhà tư bản Mỹ cuối thế kỷ 19 đã bất chấp mọi thứ. Vì thế, giới tư bản sẵn sàng cắt giảm lương, duy trì điều kiện làm việc tồi tệ để giảm chi phí khiến công nhân phải mưu sinh một cách bi thảm.
Trong khi đó, số lượng người nhập cư đến Mỹ ngày càng tăng nhanh với khoảng 5,5 triệu người vào thập niên 1880 và 4 triệu người vào thập niên 1890. Điều này đồng nghĩa với việc số lượng lao động tăng cao, việc làm trở nên khó kiếm hơn, nên giới doanh nghiệp có cơ hội làm khó người lao động.
Hơn thế nữa, kinh tế xứ cờ hoa vào cuối thập niên 1880 và đầu thập niên 1890 rơi vào cảnh suy thoái, gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh ngay cả của 3 “vị vua”. Theo các tài liệu lịch sử do Đài PBS tổng hợp, giá thép đã rớt từ mức 35 USD/tấn vào năm 1890 xuống còn 22 USD/tấn vào năm 1892.
Thế nhưng, theo tài liệu lịch sử được Đại học bang Pennsylvania (Mỹ) lưu trữ, lợi nhuận mà Carnegie có được vẫn rất cao, cụ thể năm 1890 là 3,54 triệu USD, năm 1891 là 4,3 triệu USD, năm 1892 là 4 triệu USD.
Kết quả này đến từ việc Carnegie tăng cường tiết giảm chi phí, bắt công nhân phải làm 12 giờ mỗi ngày suốt 6 ngày mỗi tuần nhưng không hề có một biện pháp an toàn nào. Ngành đường sắt của J.P Morgan cũng không khá hơn. Điều kiện làm việc tồi tệ đến mức chỉ trong năm 1889, khoảng 22.000 công nhân bị thương, thậm chí mất mạng trong lúc làm việc.
Không chỉ cắt giảm chi phí, bộ ba trùm tư bản còn không ngừng thâu tóm những công ty gặp khó khăn để mở rộng đế chế của mình. Mỗi người lại độc quyền trong lĩnh vực của mình nên đã giàu càng giàu thêm.
Cứ như vậy, xã hội ngày càng phân hóa, đối mặt với số rất ít những người siêu giàu là hàng triệu người sống đói khổ. Các hội đoàn công nhân ngày càng mâu thuẫn với giới tư bản.
Hàng loạt cuộc bãi công, đụng độ đã xảy ra giữa giới chủ và công nhân. Trong đó cao trào là vụ bạo động ở Nhà máy thép Homestead (Pennsylvania) vào năm 1892 khi lực lượng an ninh tư nhân Pinkerton tiến vào nhà máy giành lại quyền kiểm soát từ tay công nhân đang chiếm đóng. Hậu quả, 9 công nhân thiệt mạng và 11 công nhân bị thương, còn bên an ninh tư nhân có 3 người chết và 12 người bị thương.
Đến nay, bên nào nổ súng trước trong vụ đụng độ trên vẫn là một câu hỏi chưa được giải đáp chính xác.

“Mua” tổng thống
Dù sự bất mãn trong xã hội ngày càng tăng cao, nhưng đế chế của các trùm tư bản vẫn vững chắc. Ngay cả đạo luật Chống độc quyền Sherman được Quốc hội Mỹ thông qua vào năm 1890 cũng chẳng thể đụng đến Rockefeller, Carnegie và Morgan, vốn có quan hệ sâu rộng với giới chính trị gia.
Tuy vậy, chính sự thống trị của 3 ông trùm đã tạo điều kiện cho hạ nghị sĩ của tiểu bang Nebraska là William Jennings Bryan nhanh chóng thu hút sự ủng hộ của dân chúng nhờ thông điệp tuyên chiến với các tài phiệt.
Trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 1896, nghị sĩ Bryan đại diện đảng Dân chủ đứng ra tranh cử với cam kết nếu thắng lợi, ông sẽ quét sạch đế chế của Rockefeller, Carnegie và Morgan.
Sự bất mãn trong dân chúng tăng cao giúp cho cơ hội để nghị sĩ Bryan trở thành chủ nhân Nhà Trắng càng rõ ràng hơn. Viễn cảnh 3 vị vua đánh mất đế chế ngày càng hiện hữu.
Trước tình thế trên, ba nhà tài phiệt dù vốn không thiện cảm với nhau, cũng phải liên kết lại để chống nghị sĩ Bryan. Giải pháp duy nhất chính là ứng viên đảng Cộng hòa William McKinley – Thống đốc bang Ohio – phải thắng trong cuộc bầu cử.
Rockefeller, Carnegie và Morgan cùng một nhà tài phiệt khác đã chi tổng cộng 1 triệu USD để ủng hộ cho quỹ tranh cử của Thống đốc McKinley. Đó là chưa kể số tiền đút lót cho báo giới, cùng nhiều nhân vật có ảnh hưởng khác để lên tiếng ủng hộ ứng viên đảng Cộng hòa. Bryan gần như bị phong tỏa cơ hội để tiếp cận dân chúng.
Vũ khí chủ lực của ông chỉ còn là những cuộc vận động tranh cử đến các địa phương. Không những vậy, đến ngày bầu cử, các tài phiệt còn chỉ đạo những quản đốc tìm cách thúc ép công nhân bỏ phiếu cho ứng viên McKinley.
Tháng 11.1896, cuộc bầu cử có kết quả và phần thắng thuộc về giới tài phiệt: McKinley thắng cử với tỷ lệ phiếu bầu 51% so với 47% của đối thủ. Đế chế của 3 vị vua tạm an toàn thêm 4 năm.

Người tính không bằng trời tính
Suốt 4 năm dưới thời Tổng thống McKinley, những bất ổn xã hội không được khắc phục là bao và đối thủ Bryan tiếp tục nuôi tham vọng trở thành Tổng thống Mỹ để đánh đổ Rockefeller, Carnegie và Morgan. Thế nhưng sức ảnh hưởng của ông Bryan không còn lớn dù tiếp tục đại diện đảng Dân chủ chạy đua vào Nhà Trắng trong cuộc bầu cử năm 1900.
Các tài phiệt tiếp tục tự tin tổng thống đương nhiệm sẽ chiến thắng. Tuy nhiên, một mối nguy khác đang trỗi dậy chống lại 3 vị vua. Đó là việc Theodore Roosevelt, một ngôi sao đang lên trong đảng Cộng hòa nhưng có quan điểm muốn các trùm tư bản phải có trách nhiệm hơn với xã hội.
Xuất thân từ gia đình danh giá lại là anh hùng trong cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha vào năm 1898, khi trở về quê nhà ông nhanh chóng đắc cử Thống đốc New York.
Để vô hiệu hóa Roosevelt, các trùm tư bản lập tức tác động để biến nhân vật này thành ứng viên Phó Tổng thống của Tổng thống McKinley. Lúc bấy giờ, vị trí Phó Tổng thống Mỹ không có nhiều quyền lực, chủ yếu làm công tác giao tế.
Kế hoạch này của các tài phiệt thành công. Tháng 11.1900, ông McKinley tái đắc cử khiến cho 3 vị vua tin rằng đế chế của mình tiếp tục vững chắc.
Thế nhưng người tính không bằng trời tính, nhiệm kỳ thứ 2 của Tổng thống McKinley kéo dài chẳng được bao lâu. Tháng 9.1901, ông bị thiệt mạng trong một vụ ám sát. Kết quả Roosevelt trở thành Tổng thống ở tuổi 42 – chủ nhân Nhà Trắng trẻ nhất trong lịch sử cho đến nay (ông John Kennedy đắc cử Tổng thống Mỹ ở tuổi 43, và là Tổng thống trẻ tuổi nhất được bầu – NV).
Nỗi lo sợ của các nhà tư bản trở thành hiện thực dù bao toan tính tưởng đã thành công. Nắm quyền trong tay, Roosevelt lập tức tiến hành hàng loạt biện pháp để hạn chế tình trạng độc quyền trong kinh doanh. Trong 3 vị vua, Carnegie sớm nhẹ gánh nhờ việc bán Công ty thép Carnegie cho Morgan vào năm 1901.
Phần đời còn lại, Morgan tập trung làm từ thiện, đóng góp phần lớn tài sản cho từ thiện, xây dựng hàng trăm thư viện, ủng hộ hàng loạt trường học như một cách để giảm nhẹ cảm giác tội lỗi về những hậu quả từng gây ra trong quá trình làm giàu.
Ông J.P Morgan phải dùng vô số cách thức mới hạn chế ảnh hưởng từ việc chống độc quyền. Morgan phát huy thế mạnh về quyền lực trong giới tài chính để bảo vệ đế chế. Còn vua dầu mỏ Rockefeller thì phải liên tục di chuyển để né trác của tòa.
Nhưng rồi, đế chế của vị vua này cũng bị chia nhỏ vào năm 1911, thành 34 công ty nhỏ hơn. Hai năm sau, Morgan qua đời để lại di sản lớn cho ngành tài chính Mỹ. Một số công ty có nguồn gốc liên quan đế chế của ông đến nay vẫn là những tập đoàn hàng đầu thế giới như GE, Chase Morgan…
Dường như định mệnh luôn giúp nước Mỹ có những nhân vật xuất hiện đúng lúc để giải quyết các bất ổn xã hội và chuyển biến theo hướng ổn định hơn. Sau thế hệ của ba ông trùm độc quyền tư bản là thế hệ tỉ phú tiếp theo, có trách nhiệm xã hội hơn.
Đó là thế hệ của Henry Ford, William Wrigley Jr., Milton S. Hershey… đưa nước Mỹ phát triển sâu rộng, tiến bộ và công bằng hơn nhờ chính sách an sinh xã hội tốt hơn. Vì thế, Mỹ đã có nền tảng vững chắc để bứt phá sau Thế chiến 2.

Công tử nhà giàu làm chủ Nhà Trắng
Hơn 50 năm trôi qua kể từ khi Tổng thống Mỹ John F. Kennedy bị ám sát, nhưng lịch sử sẽ còn nhắc đến ông kèm theo nhiều câu hỏi mà cho đến nay vẫn chưa được giải đáp chính xác.
Qua 240 năm lập quốc, nước Mỹ vừa bổ sung thêm vị tổng thống thứ 45 vào danh sách là ông Donald Trump. Trong danh sách đó, có những người là cha con (Tổng thống thứ 2 John Adams là cha của Tổng thống thứ 6 John Quincy Adams; Tổng thống thứ 41 George H. W. Bush là cha của Tổng thống thứ 43 George W. Bush), hoặc là anh em họ cùng dòng tộc (Tổng thống thứ 26 Theodore Roosevelt và Tổng thống thứ 32 Franklin D. Roosevelt).

Tuy nhiên, có một gia tộc dù chỉ đóng góp 1 đại diện làm chủ Nhà Trắng nhưng xét về mức độ nổi tiếng trong chính giới Mỹ thì không hề thua kém các dòng tộc trên.
Đó là gia tộc Kennedy với một người cha đầy quyền lực và 3 người con trai đều từng làm thượng nghị sĩ, trong đó có một người trở thành Tổng thống, còn một người trở thành Bộ trưởng Tư pháp trong chính quyền của anh trai.
Năm 2011, Hiệp hội lịch sử Mỹ đã trao một giải thưởng danh giá cho cuốn sách nghiên cứu lịch sử mang tên “Last call” nói về giai đoạn cấm buôn bán rượu ở Mỹ hồi thập niên 1920 và đầu thập niên 1930.
Tác giả cuốn sách là Daniel Okrent, người từng là một biên tập viên đình đám của tờ The New York Times và có không ít thành tựu về các tác phẩm nghiên cứu lịch sử.
Tham vọng được truyền từ người cha
Từ những tư liệu lịch sử, cuốn “Last call” đã khẳng định mối quan hệ giữa Joseph P. Kennedy Sr. (JPK), cha của Tổng thống John F. Kennedy (JFK), với giới tội phạm Chicago (Mỹ) trong giai đoạn cấm rượu.
Thậm chí, cuốn sách khẳng định JPK từng gặp gỡ để hợp tác kinh doanh cùng Al Capone, lãnh đạo băng nhóm Hội y phục Chicago và là một trong những ông trùm quyền lực nhất giới tội phạm Mỹ từ thập niên 1920-1930.
Nhiều tài liệu và chuyên gia lịch sử khác của Mỹ cũng ám chỉ JPK từng là nhân vật “có số má” trong thế giới ngầm nước này, quan hệ cả với “ngũ đại gia đình” mafia ở New York.

Tuy nhiên, che phủ lên tất cả những câu chuyện ấy là hình ảnh một thương nhân thành công trong nhiều mảng đầu tư, kinh doanh từ bất động sản đến tài chính và là con rể của ông John F. Fitzgerald – người từng làm Thị trưởng Boston và nghị sĩ liên bang.
Khi giai đoạn cấm bán rượu kết thúc, năm 1933 người ta thấy một doanh nhân JPK đặt những bước chân đầu tiên vào giới chính trị gia, có quan hệ thân thiết với James Roosevelt II là con trai cả của Tổng thống đương nhiệm Franklin D. Roosevelt. Thậm chí, JPK được cho từng nhiều lần thổ lộ mình là con nuôi của Tổng thống Franklin D. Roosevelt.
Thực tế, năm 1934 Tổng thống Roosevelt đã chỉ định JPK làm Chủ tịch đầu tiên của Ủy ban giao dịch chứng khoán Mỹ. Sau đó, JPK lại được chỉ định làm Chủ tịch đầu tiên của Ủy ban hàng hải Mỹ, và đến năm 1938 trở thành Đại sứ Mỹ tại Anh.
Trong bối cảnh Thế chiến 2 căng thẳng, vị trí Đại sứ Mỹ tại Anh được xem có vai trò then chốt trong quan hệ hai nước, nên cần sự tin tưởng lớn từ Nhà Trắng.
Tuy nhiên, về sau quan hệ giữa JPK với chính phủ của Roosevelt không được thuận buồm xuôi gió, một phần không chỉ do quan điểm mà còn cả tôn giáo khi gia đình Kennedy theo Công giáo La Mã.
Thêm vào đó, JPK cũng có cả tham vọng làm chủ Nhà Trắng, nhưng rồi dần nhận ra rất khó thành công nên ông đặt niềm tin vào con trai cả là Joseph P. Kennedy Jr. vốn đang phục vụ trong lực lượng hải quân Mỹ.
Tiếc thay, người con trai cả hy sinh vào năm 1944 khi Thế chiến 2 chuyển sang giai đoạn cuối. Tất cả kỳ vọng còn lại được đặt vào vai người con trai thứ 2 là JFK.
Công tử trở thành ngôi sao chính trị
Sinh ra trong gia đình giàu có và đầy ảnh hưởng, JFK từ nhỏ học tập tại những ngôi trường danh giá ở Anh và cả Mỹ. Về sau, ông còn tham gia quân đội Mỹ và đạt không ít chiến tích lẫy lững trong quân ngũ.
“Đẹp trai, con nhà giàu, học giỏi…” là tất cả những điều mà phần lớn nam nhi bao đời nay mong muốn thì JFK đều có. Chính vì thế, giống như Theodore Roosevelt, chẳng bao lâu sau khi trở về từ chiến trường, JFK nhanh chóng nổi lên như một chính trị gia đầy tiềm năng. Nhất là khi hậu thuẫn phía sau là người cha giàu có, quan hệ sâu rộng, nên JFK sở hữu một bệ phóng vượt trội.
Năm 1946, JFK chạy đua đắc cử để trở thành nghị sĩ liên bang từ năm 1947. Rồi chỉ 6 năm sau, vào năm 1953, ông lại trở thành thượng nghị sĩ đầy quyền lực ở tuổi 36. Cũng bắt đầu từ đây, kế hoạch trở thành chủ nhân Nhà Trắng của JFK ngày càng rõ ràng hơn.

Năm 1960, chính trị gia trẻ tuổi này đã vượt qua thành công những đối thủ sừng sỏ trong đảng Dân chủ gồm các Thượng nghị sĩ Hubert Humphrey, Lyndon B. Johnson… JFK trở thành ứng viên tổng thống liên danh cùng ứng viên phó tổng thống Lyndon B. Johnson đại diện đảng Dân chủ.
Phía bên kia là một tên tuổi nổi danh không kém: Richard Nixon, Phó tổng thống đương nhiệm trong chính quyền của Tổng thống Dwight D. Eisenhower. Với những thành tựu mà chính quyền của Eisenhower đạt được, Nixon trở thành đại diện mạnh mẽ cho đảng Cộng hòa.
Mỗi ứng viên có một ưu thế và kết quả cũng khá sát sao khi JFK chỉ hơn Nixon 0,17% tính theo tổng số phiều bầu từ cử tri cả nước. Nhưng xét theo phiếu đại cử tri thì JFK đạt 302 còn đối thủ Nixon chỉ đạt 219.
Tuy nhiên, đến nay cuộc bầu cử vẫn bị cho đã có gian lận phiếu bầu ở 2 bang Texas và Illinois. Trong đó, Illinois có thành phố lớn nhất là Chicago – thủ phủ của Hội y phục Chicago. Theo nhiều tài liệu lịch sử, gia tộc Kennedy đã được kết nối trở lại với Hội y phục Chicago thông qua nam diễn viên lừng danh Frank Sinatra (gốc Ý), người có quan hệ mật thiết với giới tội phạm gốc Ý từ New York đến Chicago.
Hơn thế nữa, thời điểm trước cuộc bầu cử, băng nhóm Hội Y phục Chicago đang bị càn quét bởi cả Quốc hội lẫn Bộ Tư pháp Mỹ. Trong đó, người mạnh tay nhất với mafia Chicago là Robert F. Kennedy, em trai của JFK và đang thuộc cơ quan điều tra tội phạm của Quốc hội.
Theo nhiều tài liệu, JPK đã tìm đến Sam Giancana, ông trùm của Hội Y phục Chicago đủ sức thao túng giới công đoàn địa phương. Chicago nói riêng và Illinois nói chung khi đó được đánh giá như chiến trường quan trọng trong cuộc bầu cử.
Chính vì thế, JPK muốn con trai mình được đảm bảo thắng lợi ở đây. Đổi lại, Hội Y phục Chicago tạm thoát khỏi “nanh vuốt” của Robert F. Kennedy.
Thỏa thuận được thống nhất, Giancana đã ép buộc thuộc hạ vốn đang giữ vai trò quan trọng trong công đoàn ở Chicago để “đạo diễn” giới công nhân bỏ phiếu cho JFK. Và kết quả đã như ý.
Nhiều năm về sau, chính con gái của diễn viên Sinatra là Tina Sinatra đã tiết lộ với báo giới về điều này, khiến các nghi ngờ càng trở nên rõ ràng hơn.
Tuy nhiên, sau khi anh trai trở thành Tổng thống Mỹ thứ 35, và bản thân được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Tư pháp, Robert F. Kennedy đã nối lại chương trình tấn công tội phạm có tổ chức. Hội Y phục một lần nữa lao đao bởi gia đình Kennedy.
Trong lúc đó, vị tổng thống trẻ chỉ tại vị đến năm 1963 thì bị ám sát tại bang Texas (Mỹ). Sau đó, Robert F. Kennedy dần chuyển hướng hoạt động chính trị, giới tội phạm Chicago “dễ thở” hơn.
Chính vì thế, sau khi JFK qua đời, nhiều thông tin khẳng định Hội Y phục Chicago đứng sau âm mưu ám sát và có sự kết hợp của Cơ quan tình báo trung ương Mỹ (CIA) vốn đang bị JFK giảm bớt vai trò.
Mặt khác, Hội Y phục được cho từng đổi lấy sự ủng hộ từ CIA bằng cách liên kết với các nhánh tội phạm để can thiệp vào nội bộ Cuba. Chính vì thế, giả thuyết trên đến nay dù chưa đủ bằng chứng để xác thực, nhưng vẫn được giới nghiên cứu quan tâm.
Theo Thanh Niên
Xem thêm bài liên quan
- Cách 5 đại tài phiệt kiến tạo nước Mỹ dạy ta kinh doanh sinh lời trong lúc khủng hoảng kinh tế
- Người khổng lồ trong giới kinh doanh: #1 Andrew Carnegie – Kẻ nhập cư nghèo khó đã trở thành người giàu nhất thế giới
- Tự truyện Andrew Carnegie – Từ thợ thông nhà vệ sinh tới vua thép nước Mỹ giàu nhất thế giới