“Tôi muốn mượn một tách cà phê, gói cà phê nhỏ đó để truyền tải cái đó cho thế hệ trẻ chứ không phải chỉ vấn đề kinh doanh” – Chủ tịch Trung Nguyên Legend Đặng Lê Nguyên Vũ bày tỏ.
“Tôi chỉ mượn cái tách cà phê để tôi chuyển đổi một hoài bão, một khát khao và sự khẳng định rằng người Việt nếu dám làm, dám đua tranh, dám thách thức sẽ suy nghĩ được cách làm dù rằng cái lực mình (với thế giới) chênh lệch và biết chiến thắng. Tôi muốn mượn một tách cà phê, gói cà phê nhỏ đó để truyền tải cái đó cho thế hệ trẻ chứ không phải chỉ vấn đề kinh doanh” – Chủ tịch Trung Nguyên Legend Đặng Lê Nguyên Vũ chia sẻ.
Cà phê với Đặng Lê Nguyên Vũ
Tôi gặp lại Đặng Lê Nguyên Vũ sau một thời gian dài. Cuộc hội ngộ diễn ra tại trang trại của Vũ nằm trên vùng sơn cước lộng gió. Tách cà phê Trung Nguyên đen nóng pha phin truyền thống Việt Nam hoàn toàn mê hoặc vị giác và khứu giác tôi.
Câu chuyện của chúng tôi bắt khởi trong mùi hương nồng nàn và bầu không khí trầm mặc uy linh tạo nên bởi nghi thức mà Vũ gọi là “Cà phê Đạo”…
Vũ đến với cà phê, ban đầu chỉ nhằm kiếm tiền, giải thoát bản thân và gia đình khỏi cái nghèo. Nhưng càng gắn bó, càng tìm hiểu cà phê, ông càng thấy nó thiêng liêng và huyền bí. Cà phê chuyên chở một triết lý, một tư tưởng sống chứ không chỉ là thức uống cho dạ dày. Cà phê là biểu hiện sinh động cho tri thức, sức sáng tạo.
Cà phê đối với vị chủ tịch Trung Nguyên mê đắm, thần tình và đáng ngưỡng vọng như một “Nữ thần Đen – Nữ thần Sáng tạo” đến nỗi mà ông ra cả “tuyên ngôn cà phê” và “học thuyết cà phê” trong đó có phát hiện lớn về sự bất công đối với các nước trồng cà phê.
Thậm chí ông còn khởi xướng dự án không thể tin nổi: Thánh địa cà phê toàn cầu. Cùng với đó, ông lại thao thức với công thức thành công cho tất cả cá nhân và quốc gia. Nỗi thao thức đó càng mãnh liệt trong bối cảnh, điều kiện để Việt Nam hội nhập như hiện nay.
Ông là mẫu người đã nói là làm – không “nói cho đã mồm”. Ông không chấp nhận sống chung với sự manh mún, hay hô khẩu hiệu suông. Ông luôn cổ động cho “một Hoài bão, ba Tinh thần”.
Trong đó, một Hoài bão là: Việt Nam trở thành một quốc gia đi đầu, chinh phục và ảnh hưởng; còn ba Tinh thần là: Chiến binh, Doanh nhân và Sáng tạo. Ông xác định 3 mục tiêu phải làm cho bằng được trong đời người: Toàn cầu hóa Trung Nguyên; Đóng góp vào chiến lược quốc gia cho một Việt Nam hùng mạnh; Theo đuổi Học thuyết Cà phê trên phạm vi toàn cầu.
Mới nghe Đặng Lê Nguyên Vũ nói có lẽ nhiều người “phát ngán”, nhưng nghe kỹ thì thấy hay, càng nghe càng thấy có nhiều thứ có lý. Nghiên cứu lịch sử của nước ta và nhiều nước khác, ông nhận ra rằng, điểm chí tử của các dân tộc ít thành công là văn hóa Thái m – thiếu niềm tin lớn, không có khát vọng lớn, không có tư tưởng gây ảnh hưởng, không dám tranh tiên đi đầu.
Ông nói, chưa bao giờ thế giới trở nên khó lường như ngày hôm nay với hàng loạt khủng hoảng đan xen toàn cầu về biến đổi khí hậu, kinh tế – tài chính, năng lượng, lương thực, đói nghèo, dịch bệnh, xung đột sắc tộc – tôn giáo, đối đầu chính trị – quân sự, khủng hoảng nhân văn và đạo đức xã hội, hiểm họa khủng bố, vũ khí giết người hàng loạt…
Đây là chỉ dấu của khủng hoảng toàn diện, đan xen và trầm trọng, khủng hoảng về hệ giá trị phát triển, ngay cả đối với các quốc gia thành công nhất. Hơn bao giờ hết, toàn thế giới cần phải Tư Duy Lại, Thiết Kế Lại và Vận Hành Lại. Nhân loại có được nền văn minh như ngày nay là nhờ óc sáng tạo, “Không có sáng tạo, không có lịch sử”.
Theo ông, lịch sử loài người được chia làm 3 thời kỳ chính: Sáng tạo để Thích nghi, Sáng tạo vì Lòng tham và giờ đây phải là Sáng tạo có Trách nhiệm. Sáng tạo vì lòng tham và hãnh tiến đã tàn phá thế giới trong mấy trăm năm gần đây. Có 4 cấp độ quốc gia thành công: Thống nhất giữa dân tộc với quốc gia; Trở thành quốc gia độc lập – hùng mạnh; Trở thành quốc gia chủ chốt trong nền văn minh; và một nền văn minh dẫn dắt thế giới.
Chúng ta đều đang có vấn đề tại 4 cấp độ này. Muốn đạt được các cấp độ đó, chúng ta cần thấu hiểu mình, hiểu bạn bè, hiểu đối tác và hiểu kẻ thù cũng như hiểu xu hướng chủ lưu của thời đại. Trong đó, quan trọng nhất là ta phải hiểu rõ chân tơ kẽ tóc bản thân mình. Chúng ta có thừa điều kiện để hiện thực hóa.
Nhưng muốn làm nên, nhóm nhân lực dẫn dắt Việt thiết yếu cần có cùng khát vọng, tầm nhìn, đồng tâm và quyết tâm cao độ; Tất thảy chúng ta đều phải dốc sức hùng tâm cho các mục tiêu; Chúng ta sẽ thành công nếu lựa chọn đúng chiến lược, có phương pháp đúng, và thực thi thông minh.
Ông cho rằng, nếu là một quốc gia thống nhất thì phải có sự thống nhất giữa quốc gia và dân tộc. Có tinh thần gia tộc và tông tộc thì phải có tinh thần quốc tộc – tức tinh thần quốc dân.
Sở dĩ thế giới đang khủng hoảng bởi chưa thoát khỏi cái bóng tư tưởng kinh tế cực đoan cũ của Adam Smith, Keynes, cho đến học thuyết địa chính trị Mackinder, học thuyết biển Mahan; học thuyết quyền mưu đối đầu của Tôn Tử, Clausewitz, Machiavelli; học thuyết cạnh tranh sinh tồn Darwin, thuyết dân số tiêu cực Malthus cũng như các học thuyết mang tính đối kháng về ý thức hệ và các tôn giáo có vũ trụ quan, nhân sinh quan cũ.
Những tư tưởng hướng về triệt tiêu này tiếp tục là cội rễ để tạo thành các phân cực đe dọa lẫn nhau. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần có niềm tin rằng, toàn thể nhân loại hoàn toàn có thể tạo ra một thế giới hài hòa và cùng phát triển bền vững với những lợi ích mang tính phổ quát và không loại trừ lẫn nhau. Và chìa khóa không gì khác chính là Tinh thần Cà phê thần tình.
“Học thuyết Cà phê” ra đời với hạt nhân là Tinh thần Cà Phê – Sáng tạo có trách nhiệm. Tinh thần Cà phê phát biểu rằng: Mọi người ai cũng có thể thành công; muốn thành công cần có sáng tạo; cà phê kích xúc sáng tạo; nhưng sáng tạo cần có một số điều kiện nền tảng về văn hóa và chính trị.
Từ tinh thần nhân bản đó, có thể nói cà phê là năng lượng của nền kinh tế tri thức, kinh tế sáng tạo, kinh tế bền vững, giúp kiến tạo thế giới mới. Có gần 3 tỉ người yêu và đam mê cà phê trên toàn cầu, xuyên tôn giáo, văn hóa, địa lý, thể chế chính trị. Đây là một lực lượng sáng tạo hùng hậu, và nếu họ hướng tới sáng tạo có trách nhiệm thì thế giới sẽ vô cùng tốt đẹp.
Ông nói, hiện nay đang là thời điểm giao thoa giữa nguy cơ ngàn năm và cơ hội ngàn năm mà chúng ta cần thay đổi để chộp lấy cơ hội hội nhập.
Một là, toàn bộ thế giới đang rơi vào khủng hoảng chung, và bản chất của cuộc khủng hoảng đó là khủng hoảng tài nguyên thiên nhiên và không gian sinh tồn cho loài người.
Hai là, thế giới đang bị chi phối bởi các tư tưởng đối đầu cưc đoan triệt tiêu lẫn nhau.
Ba là, tiếp tục có xung đột, tranh chấp đối với các nguồn lực phát triển.
Bốn là, loài người vẫn theo quán tính tư duy cũ của nhị nguyên luận dẫn đến phân tranh.
Năm là, vấn đề lớn nhất của loài người hiện nay là khủng hoảng niềm tin. Những mối nguy chung đó đáng báo động ở cấp cao nhất.
Mục tiêu của ông là rõ ràng và liên hoàn: “Đoàn kết dân tộc – Thống nhất ASEAN – Hội tụ thế giới”. Việt Nam có đầy đủ điều kiện để thực thi chiến lược định vị trung tâm. Đây là thời đại mà các thế lực dịch chuyển trọng tâm từ Tây sang Đông, là cơ hội để ta tiếp xúc trọn vẹn với thế giới.
Căn cứ theo thuyết “Chuỗi giá trị” và học thuyết Biên giới mềm, ông cho rằng, những nước nhỏ yếu hay những dân tộc tiêu thụ luôn ở phân khúc thấp nhất trong chuỗi giá trị toàn cầu. “Với những vốn liếng chiến lược dồi dào, chúng ta phải thắng cuộc chiến kinh tế này. Tại sao không!”, ông tin tưởng.
Mong ước của ông là một Việt Nam hùng mạnh, ảnh hưởng, một Việt Nam có một sứ mạng với thế giới. “Người khác làm được thì ta làm được. Dân tộc khác làm được thì dân tộc ta làm được. Nước khác làm được thì Việt Nam làm được và còn làm tốt hơn”, ông nói thêm: “Khi cùng nhau, không gì là không thể”.
Nếu là một thân hữu của ông, bạn sẽ thấy ông luôn trằn trọc về “một Việt Nam hùng cường, vĩ đại và ảnh hưởng”. Có thời gian ông lui về trang trại, khóa chặt cửa cả năm ròng, đêm đêm làm bạn với cà phê, nghiền ngẫm một lối đi đặc sắc hơn và thông minh hơn cho đất nước, điều đã lấy đi nhiều năng lượng của ông. Ông yêu thích tư duy “dựa lưng vào núi, tiến ra biển cả”.
Theo ông, tư duy này là đáng ngẫm nghĩ , đây là một tư duy hệ trọng mang tính chất phát hiện. Hàng nghìn năm qua, dân tộc ta đã tư duy khu trú, vọng nội, cát cứ. Tư duy mở cửa giao thương với thế giới chính là biểu hiện cụ thể nhất của tinh thần chinh phục, khám phá và hướng ngoại cũng như tinh thần trọng thương – điều vắng bóng trong suốt lịch sử dựng nước và giữ nước.
Tư duy biển là tư duy thượng tôn thương mại, thượng tôn giao lưu, buôn bán, trao đổi. Tinh thần doanh nhân là chìa khóa của chúng ta. Kinh tế phải là trung tâm của mọi chính sách.
… Nhưng chính những ý tưởng đó dường như đã khiến Đặng Lê Nguyên Vũ trở nên cô độc. Lẽ giản đơn là nhiều người không “cảm” được cái “cá biệt” của vị CEO của Trung Nguyên. Ông cô đơn bởi ông chọn cho mình một lối đi riêng cùng nỗi ưu tư và phương pháp luận không giống ai. Nhưng trong những cơn bão tố búa rìu dư luận, ông vẫn bình thản như… Tinh thần Cà phê.
Dĩ nhiên, ông có những nhược điểm mang tính con người. Nếu bạn là người quá nhạy cảm thì hẳn bạn sẽ khó chịu khi tiếp xúc với ông, có ấn tượng dường như ông quá lạnh lùng. Thậm chí đôi khi ông cực đoạn đến mức kiêu bạt áp đặt cả quan điểm của mình không thèm tính đến phản ứng của người đối diện. Nhưng đó chính là Đặng Lê Nguyên Vũ.
Tôi tiếp xúc với ông ở nhiều góc độ rất đời. Nếu tinh ý bạn sẽ cảm nhận không phải ông là người khô khan mà thực ra ông rất giỏi che giấu cảm xúc. Theo ông, nếu ai cũng lo cho mỗi bản thân, lo kiếm tiền theo kiểu “vinh thân phì gia” thậm chí còn làm nghèo đất nước thì “khác gì loài cầm thú”?
Trong cuộc nói chuyện, đôi khi mắt ông quắc lên dữ dội. Ánh mắt ấy, cùng với hình tướng và thần thái bạo liệt của ông, khóa chặt và ám ánh bất kỳ đối phương nào. Những lời nói của ông như toát thẳng từ cõi lòng bộc trực của một người đàn ông khẳng khái, không quen nói lời hoa mỹ.
Và, có lẽ khó khăn lớn nhất khi gặp ông chính là phải chia tay ông. Trong chầu cà phê tiễn chân buổi chiều muộn, ông nhấp một ngụm đắng gắt, rít khói thuốc, đăm chiêu phóng tầm mắt về phía đường chân trời, nơi từ trong mù sương hiển lộ ra dãy núi cao nguyên M’drắk hình yên ngựa hùng vĩ cùng một con đại bàng lẻ loi đang dang cánh dũng mãnh, nhìn ngắm thế gian từ trên đỉnh cao vời vợi. Ông không giấu được vẻ cô đơn buồn bã vì thiếu người sẻ chia.
Học thuyết cà phê đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt thành của giới tinh hoa trong nước và quốc tế. Đặng Lê Nguyên Vũ đã đi nhiều nơi trên thế giới để quảng bá học thuyết, mô hình phát triển và triết lý quản trị. Trong số những người chia sẻ học thuyết của ông có tên Howard Moskowitz (học giả hàng đầu của mỹ), GS.Romano Prodi – cựu thủ tướng ý, cựu chủ tịch ủy ban châu âu, GS.Joseph Nye (cha đẻ của quyền lực mềm, quyền lực thông minh – mỹ), GS.Stephen Sacca (học viện MIT, Mỹ), GS.Tom Canon (ĐH Liverpool), GS.Peter Timer (ĐH Harvard), những chủ nhân giải Nobel như GS. Roger b. Myerson (kinh tế), GS. Douglas d. Osheroff (vật lý), GS. Harald Zur Hausen (y học), Harold w. Kroto (sinh hóa)…
Theo Thanh niên
Đặng Lê Nguyên Vũ – được nuôi dưỡng bằng những khát vọng
Cùng với Trung Nguyên, Đặng Lê Nguyên Vũ được đánh giá là một “hiện tượng kinh tế” của Việt Nam cuối thế kỷ XX.
“Tôi không bao giờ quên được cái ngày tăm tối đó, khi bố tôi đổ bệnh nặng mà chạy vạy khắp trong dòng tộc không làm sao kiếm đủ 2 triệu đồng cho ông chữa bệnh”.
Những ngày tăm tối nghèo khó bủa vây suốt thời thơ ấu đã hun đúc nên ý chí làm giàu của thanh niên Đặng Lê Nguyên Vũ, người sau này trở thành “vua cà phê” của Việt Nam.
“MẸ TÔI NGHĨ NGHÈO KHỔ LÀ SỐ MỆNH Ở TRỜI”
Đặng Lê Nguyên Vũ sinh ngày 10/2/1971 tại Nha Trang, Khánh Hòa trong một gia đình nông dân nghèo, sau đó họ chuyển đến sinh sống ở huyện miền núi M’drak, tỉnh Đắk Lắk. Tuổi thơ của ông Vũ gắn liền với những những ngày bẻ ngô, chăm lợn, giúp mẹ đóng gạch và đi bộ tới trường suốt 15 km trên con đường đất đỏ.
Năm 1981, cha ông lâm trọng bệnh, gia cảnh sa sút, cũng từ đây khao khát làm giàu, thoát nghèo đã được hình thành trong suy nghĩ của cậu bé mới 10 tuổi.
Thời điểm Đặng Lê Nguyên Vũ đỗ vào khoa Y, trường Đại học Tây Nguyên, gia cảnh nhà ông chẳng khấm khá hơn. Cái đói, cái nghèo vẫn luôn đeo đẳng, thôi thúc chàng thanh niên 20 tuổi khi ấy phải tích cực suy nghĩ để tìm ra lối thoát.
“Tôi luôn hình dung lại được cảnh mẹ tôi nặng nhọc bưng từng chồng gạch, hay tất tả chạy ra ruộng rau lang hái đọt non đem bán kiếm miếng ăn cho cả nhà.
Mẹ tôi nghĩ cuộc sống nghèo khổ của gia đình chúng tôi là số mệnh ở trời. Mỗi lần tôi về thăm nhà thì mẹ tôi vừa vui vừa lo. Vui vì có con trai về thăm nhà và lo vì khi tôi rời nhà, bà cụ phải chạy vạy một hai trăm ngàn cho tôi làm lộ phí đến trường. Tôi không bao giờ quên được cái ngày tăm tối đó, khi bố tôi đổ bệnh nặng mà chạy vạy khắp trong dòng tộc không làm sao kiếm đủ 2 triệu đồng cho ông chữa bệnh”, ông Vũ tâm sự như vậy trên Tuổi Trẻ cách đây hơn 10 năm.
Vì không chấp nhận “ngủ trong giường chiếu hẹp, mơ những giấc mơ con”, sang năm thứ 3, ông xác định sẽ bỏ ngang đại học, vào TP.HCM để tìm kiếm con đường làm giàu. Tuy nhiên người chú ở TP.HCM đã thuyết phục ông quay lại Đắk Lắk hoàn tất việc học, đồng thời hứa sẽ giúp cháu nếu sau này vẫn muốn vào Sài Gòn làm ăn.
Ngày về, chính người chú cũng bỏ tiền mua vé máy bay cho Đặng Lê Nguyên Vũ. Từ trên máy bay nhìn xuống, ông tự nhận thấy mọi chuyện trên đời này thật nhỏ bé và dần bình tâm hơn trước những khao khát vẫn đang sùng sục trong huyết quản. Ông trở lại giảng đường, một mặt tiếp tục việc học, mặt khác bắt đầu xây con đường riêng của mình.
“TẠI SAO NÔNG DÂN TRỒNG CÀ PHÊ VẪN NGHÈO”
Trở về giảng đường, Đặng Lê Nguyên Vũ trăn trở với câu hỏi: “Tại sao nông dân trồng cà phê vẫn nghèo trong khi trên thế giới có quốc gia không trồng được cây cà phê nào vẫn giàu vì cà phê? Tại sao cà phê mình chỉ để xuất hạt thô mà không chế biến để xuất khẩu?”.
Cùng với ba người bạn thân, ông Vũ hùn tiền vào để mở lò rang xay cà phê, nhưng đúng ngày khai trương lò rang xay đã bị phía chủ nhà trọ dẹp bỏ. Sau đó, họ cùng nhau chuyển lò rang xay cà phê đi nơi khác. Tuy nhiên, vì sợ cháy nổ, hàng xóm khu vực mới này cũng đi báo công an, và công cuộc khởi nghiệp lần 2 tiếp tục thất bại.
Không bỏ cuộc, những người bạn vẫn nhận rang xay một vài kí lô, rồi đóng gói và đem bán cho các mối lẻ. Những gói cà phê mang thương hiệu Trung Nguyên với biểu tượng ngày đó là mũi tên chĩa thẳng lên trời được nhiều người chú ý tới.
Năm 1996, “Hãng cà phê Trung Nguyên” khai trương bảng hiệu ở cây số 3, thành phố Buôn Ma Thuột, là cột mốc quan trọng trong sự phát triển của cả tập đoàn Trung Nguyên sau này. Theo lời ông Vũ, gọi là “hãng” cho oai chứ cái “tổng hành dinh” lúc đó “ọp ẹp phát khiếp”, toàn bộ bảng hiệu đều do họ tự vẽ tự sơn, khách hàng cũng chỉ là mấy sinh viên cùng trường lớp.
Từ cơ sở này, những người bạn xác định kế hoạch sẽ mở thêm điểm kinh doanh ở miền Tây, tạo bàn đạp tiến về thị trường Sài Gòn. Họ tìm được một đối tác ở Long Xuyên để mở lò rang xay, chế biến, phân phối cà phê tại miền Tây.
Tuy nhiên những khác biệt trong tư tưởng, phương thức kinh doanh khiến cuộc “hôn phối” thất bại chỉ sau vài tháng. Cùng lúc ấy, việc buôn bán tại Buôn Ma Thuột gặp bế tắc, chỉ duy trì tồn tại từng ngày.
Câu hỏi đau đầu lúc bấy giờ là nguồn vốn ở đâu để tiếp tục kinh doanh? Thật may mắn, một người bạn đã đồng ý cho ông Vũ mượn chiếc xe Dream, tài sản quý giá vào thời điểm đó để họ đem bán và lấy tiền duy trì sự nghiệp.
Thậm chí họ cũng nói rõ với anh bạn này, nếu cho mượn thì coi như mất, trừ khi thành công sẽ trả lại sau. Nhưng người bạn nhiệt tình vẫn gật đầu đồng ý.
“Bây giờ tôi có thể đủ sức mua cả ngàn chiếc xe Dream nhưng vẫn không có chiếc xe nào quý giá bằng chiếc xe tình bạn của chúng tôi ngày đó. Có tình bạn vô giá đó tôi mới có được ngày hôm nay”, sau này ông Đặng Lê Nguyên Vũ chia sẻ lại như vậy.
“ZERO TO HERO”
Ngày 20/8/1998, ông Vũ cùng những người bạn khai trương quán cà phê đầu tiên tại 587 Nguyễn Kiệm (quận Phú Nhuận, TPHCM). Quán lựa chọn chiến lược tiếp cận khách hàng chưa từng có trong lịch sử ngành cà phê thời đó: Phục vụ đồ uống miễn phí trong vòng 10 ngày. Nhờ chiến lược này, Trung Nguyên đã bước đầu thành công trong việc chạm tới từng ngõ ngách của Sài Gòn.
“Quán đông nghịt suốt ngày đêm vì người ta truyền miệng nhau. Chúng tôi và mấy người bạn phục vụ suốt ngày đêm đến nỗi nói không ra tiếng mà trong lòng thì vui không thể tả. Chúng tôi đã định hình Trung Nguyên là quán cà phê mà khách hàng có thể mua hàng, uống cà phê đối chứng bằng cách đưa ra rất nhiều loại cà phê để khách chọn lựa và hướng dẫn cách thưởng thức cà phê ‘theo kiểu Trung Nguyên'”.
Xác định phát triển mô hình theo hướng nhượng quyền, trong hơn 1 năm sau đó, từ 1999 đến 2000, Trung Nguyên có khoảng 500 quán cà phê trên toàn quốc. Thương hiệu cà phê này thành công tới nỗi có một thời người ta đã gọi tất cả các loại cà phê ngon, có gu là cà phê Trung Nguyên; như cách mà người Việt vẫn gọi xe máy là Honda…
Sang đến 2001, Trung Nguyên bắt đầu kế hoạch phát triển cà phê hòa tan, tiến đánh vào mảng thị trường trước nay chỉ thuộc về 2 tay chơi là Nestle và Vinacafe. Năm 2003, Trunng Nguyên tung ra sản phẩm cà phê hòa tan G7, và nhanh chóng định hình thế chân vạc trên thị trường gồm Nestle – Vinacafe – Trung Nguyên.
Thành công nối tiếp thành công, Trung Nguyên cho xây dựng hàng loạt nhà máy cà phê; trong đó nhà máy ở Bình Dương lớn nhất Việt Nam còn nhà máy tại Bắc Giang lớn nhất châu Á. Danh mục sản phẩm cà phê của Trung Nguyên cứ dài ra mãi, từ cà phê chồn; cà phê rang xay; cà phê hòa tan; cà phê hạt nguyên chất đến cà phê tươi…
Không chỉ xây dựng nhà máy chế biến, Đặng Lê Nguyên Vũ còn cho lập Làng cà phê Trung Nguyên rộng 20.000m2; Bảo tàng cà phê tại Buôn Mê Thuột nhằm biến nơi đây thành thủ phủ cà phê toàn cầu.
Với ước mong vươn ra thế giới, năm 2008, Trung Nguyên thành lập văn phòng tại Singapore nhằm mục tiêu phát triển thị trường này thành một cứ điểm để mở rộng ra khối Asean và toàn cầu.
Tính đến nay, cà phê Trung Nguyên đã có mặt tại 60 quốc gia, và có sản phẩm bán trên hàng loạt các trang thương mại điện tử cũng như chuỗi siêu thị lớn của thế giới.
Tháng 2/2012, ông Đặng Lê Nguyên Vũ lần đầu tiên được vinh danh là “Vua Cà phê Việt” một cách chính thức trên tạp chí uy tín National Geographic Traveller. Cùng năm đó, tạp chí Forbes nhắc lại danh hiệu này với lời ca ngợi “zero to hero” (nhân vật từ vô danh trở thành anh hùng).
“THANH NIÊN KHÓ LẬP CHÍ VÌ KHÔNG TIN VÀO NĂNG LỰC, MÀ LẠI TIN VÀO SỐ PHẬN”
Những năm sau này, dù bị ảnh hưởng không nhỏ bởi cuộc chiến ly hôn giữa hai vợ chồng ông Đặng Lê Nguyên Vũ thì doanh thu hàng năm của Trung Nguyên vẫn đạt khoảng trên dưới 4.000 tỷ đồng/năm. Một phần không nhỏ trong số ấy được ông Vũ dùng vào các chương trình truyền bá trí thức, tinh thần khởi nghiệp kiến quốc cho thế hệ trẻ.
Trong một cuộc phỏng vấn cách đây vài năm, Đặng Lê Nguyên Vũ chia sẻ rằng: “Tôi tự thấy mình có sứ mệnh với thanh niên Việt Nam, mong muốn họ tin rằng, những gì tôi có thể làm được, họ cũng làm được. Mọi công dân đều có quyền nghĩ lớn”.
Ông Vũ cũng từng đánh giá, lớp trẻ chính là lực lượng chủ chốt gánh vác sứ mệnh tương lai của đất nước nhưng hiện nay lớp trẻ vẫn còn thiếu tự tin, và chưa xác định được việc định hướng, lập chí cho mình.
Ông cho biết, có 3 yếu tố rường cột để hình thành một tư duy chiến lược hoàn hảo: Đó là động lực, năng lực và nguồn lực. Hiện năng lực, nguồn lực thì ta đã có nhưng vì tính tự ti khiến thanh niên không nhận ra mình, nên họ hoàn toàn không có động lực.
“Thanh niên hiện tại khó lập chí vì họ không tin vào năng lực của mình, mà họ lại tin vào số phận. Giờ phải làm thế nào để đánh bật những tư tưởng tự ti đó ra. Cần có người thúc đẩy, thổi lửa cho họ”, ông Vũ nói.
Từ năm 2012, Trung Nguyên đã liên tục trao tặng hàng triệu cuốn sách cho giới trẻ, trong đó có những quyển mang tính thay đổi tư duy mạnh mẽ như “Khuyến học”, “Nghĩ giàu làm giàu”, “Quốc gia khởi nghiệp”, “Không có gì là thất bại, tất cả chỉ là thử thách”… Đây đều là những quyển sách do đích thân ông Vũ cẩn trọng tuyển chọn từ hàng triệu cuốn sách, từ hàng ngàn tấm gương danh, vĩ nhân thành công nhất của nhân loại.
Năm 2018, Trung Nguyên và ông Đặng Lê Nguyên Vũ còn khiến dư luận bất ngờ khi công bố sẽ chi 5 tỷ USD để trao tặng trên 200 triệu cuốn sách trong giai đoạn 2018-2023.
Những cuốn sách này sẽ được trao tặng trên khắp cả nước, đến từng vùng sâu, vùng xa, nhà văn hóa của các quận huyện, thị trấn,…với mục tiêu “vì một Chí Hướng Lớn, vì một Khát Vọng Vĩ đại, Khởi Nghiệp Kiến Quốc không chỉ cho 30 triệu thanh niên Việt mà cho mọi gia đình, mọi công dân Việt Nam”.
Suốt cuộc đời mình, Đặng Lê Nguyên Vũ luôn đau đáu với ba mục tiêu lớn. Thứ nhất là xây dựng một tầm nhìn 20 tỉ USD cho cà phê Việt Nam, lấy lại giá trị thực mà cà phê Việt xứng đáng được hưởng.
Thứ hai là góp phần kiến tạo nên một quốc gia hình mẫu, dẫn dắt – có khao khát vĩ đại với lòng tin và tâm huyết đặt vào thế hệ trẻ. Thứ ba là xây dựng một hệ sinh thái chữa lành, khai sáng để giúp nhân gian thoát khỏi những đau khổ, đói nghèo, bệnh tật triền miên và đi tới sự giàu có toàn diện về thể chất, vật chất, tinh thần.
Dù đời tư xung quanh ông có nhiều chuyện phức tạp thì không thể phủ nhận khả năng suy nghĩ, tư duy, chiến lược và đặc biệt, cái tâm, cái tầm ông đặt vào thế hệ trẻ của đất nước thì không phải vị doanh nhân nào cũng làm được.
PGS. TS Trần Đình Thiên – Nguyên Viện trưởng Viện Kinh Tế Việt Nam, thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng từng bày tỏ quan điểm về khát vọng vĩ đại của Nhà sáng lập Tập đoàn Trung Nguyên như sau: “Đặng Lê Nguyên Vũ là người có khát vọng cho dân tộc thấm đẫm trong từng câu nói, hành động của mình. Theo dõi hành trình mà Đặng Lê Nguyên Vũ và Trung Nguyên đã làm trong nhiều năm qua, tôi càng thấy được một tinh thần dân tộc có tầm vóc; một khát vọng lớn làm sao để đưa đất nước này hùng cường”.
Theo Trung Nguyên Legend, Doanh nghiệp và Tiếp thị