Kinh doanh là kiếm tiền bằng cách phụng sự xã hội, bằng cách dùng sản phẩm hay dịch vụ như là phương tiện để giải quyết những vấn đề của xã hội và làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn.
Bà chủ một tiệm tạp hóa suốt ngày không vui vì buôn bán ế ẩm. Nhưng sau những ngày tháng nhìn vào “mắt” khách hàng, bà chợt nghĩ: “sao tôi không là người giải quyết vấn đề nhu yếu phẩm cho cả xóm?”. Và mọi chuyện thay đổi.
Từ đó, nhiều gia đình chưa khá giả trong khu phố có thể mua một, hai gói mì tôm (mà không cần phải mua cả thùng mì), một tép bột ngọt (mà không cần phải mua cả gói bột ngọt).
Bà có thể mở cửa lúc mờ sáng hay nửa đêm, khi chẳng còn nơi nào bán hàng nữa để đáp ứng nhu cầu “hết chanh đột xuất” hoặc “nhà không còn nước mắm”.
Hay hơn nữa, mọi người chỉ “xẹt” một hai bước chân là có ngay những vật phẩm cần thiết nhất cho gia đình. Lại thêm chuyện giá cả của bà so với chợ và siêu thị cũng chẳng chênh lệch là bao.
Ai cũng đoán ra kết quả: cửa tiệm suốt ngày người ra kẻ vào, bà thì bán hàng luôn tay và cười nói luôn miệng. Không chỉ tiền lãi thu được tăng cao, mà bà còn có “lợi nhuận” lớn nhất là sự quý mến của mọi người dành cho một người biết kinh doanh như bà.
Câu chuyện thứ hai về một cơ sở sản xuất tủ sắt. Người ta thường mua tủ của cơ sở này về để đựng hồ sơ. Một cơ sở bé xíu rất đỗi bình thường thì liệu có mang trong người “sứ mệnh xã hội”?
Trong một thời gian dài, cơ sở hoạt động cầm chừng, cho đến một ngày ông chủ của nó thay đổi cách nghĩ: tôi không “bán tủ sắt” nữa, mà sẽ “bán giải pháp lưu trữ hồ sơ văn phòng”.
Từ đó, ông và đồng sự tiến hành nghiên cứu để tạo ra những cái tủ sao cho có thể chống được mối, mọt, chống thấm, ngăn tủ này thì có khóa kiên cố để đựng hồ sơ quan trọng, ngăn tủ khác thì không cần khóa để dễ kéo ra kéo vào…
Ông cũng chịu khó đi đến các văn phòng để nghiên cứu màu sơn, thay đổi kích cỡ, kiểu dáng… Thế là sản phẩm của ông còn thêm tính năng làm đẹp cho cả văn phòng của các công ty. Chỉ sau một thời gian ngắn, cơ sở của ông đã lột xác và phát triển rất nhanh.
Như vậy, doanh nghiệp lớn hay nhỏ tùy thuộc vào vấn đề xã hội mà họ giải quyết được. Bà chủ tạp hóa của khu phố nọ cùng Sam Walton (ông chủ tập đoàn bán lẻ lớn nhất thế giới Wal-Mart) đều giải quyết vấn đề mua sắm của xã hội thông qua việc mở cửa hàng bán lẻ.
Họ chỉ khác nhau về phạm vi: xã hội của bà chủ là một khu phố, còn xã hội của Sam mang tầm cỡ thế giới.
Điều xã hội quan tâm không phải là doanh nghiệp đó kiếm được bao nhiêu mà là họ đã mang lại gì cho cộng đồng. Chẳng hạn, trong khi tỉ phú Nhật, Toyoda (“cha đẻ” của Toyota), với tinh thần ái quốc được người Nhật xem như anh hùng dân tộc thì tỉ phú Nga, Khodorkovsky (ông chủ của Yukos), ông ta là ai trong mắt dân Nga thì chỉ người Nga mới thấu rõ. Sự khác nhau này có lẽ do cách thức kiếm tiền của họ.
Nghề kinh doanh, xưa nay vẫn thường bị hiểu chỉ như là nghề “kiếm tiền”. Nhưng thực chất, không hề có nghề kiếm tiền, bởi nghề nào thì cũng kiếm tiền cả. Chẳng hạn, luật sư kiếm tiền bằng việc hành nghề luật, bác sĩ kiếm tiền bằng cách chữa bệnh cứu người…
Và doanh nhân, người hành nghề kinh doanh, cũng kiếm tiền bằng cách lãnh đạo một doanh nghiệp và thông qua doanh nghiệp đó để giải quyết vấn đề hay đáp ứng nhu cầu nào đó của xã hội.
Nhưng điều khác biệt của nghề kinh doanh là trong quá trình hành nghề của mình doanh nhân không hành động một cách đơn lẻ mà biết kiến tạo ra các chuỗi giá trị. Cụ thể hơn, họ nắm lấy một doanh nghiệp và tập hợp bên mình nhiều thành viên để cùng cộng hưởng lại nhằm hình thành một sức mạnh tổng lực, từ đó tạo ra nhiều giá trị hơn cho xã hội.
Đó cũng chính là lý do mà nghề kinh doanh thường kiếm được nhiều tiền hơn so với những nghề khác và vẫn được cộng đồng xã hội ủng hộ.
Nghiên cứu 25 huyền thoại doanh nhân thế giới cho thấy, dù có quá nhiều sự khác biệt nhưng họ đều có chung một tư tưởng chủ đạo: “Kinh doanh là phụng sự xã hội”.
Hay nói một cách đầy đủ hơn, “Kinh doanh là kiếm tiền bằng cách phụng sự xã hội, bằng cách dùng sản phẩm hay dịch vụ như là phương tiện để giải quyết những vấn đề của xã hội và làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn”.
Cái “đạo” kinh doanh này đã được họ quán triệt ngay từ buổi đầu khởi nghiệp đầy gian khó cho tới lúc thành công. Và sự thật này cũng chính là lý do giúp họ kiếm tiền nhanh nhất, nhiều nhất, bền nhất, còn bản thân họ thì được xã hội tôn vinh, nể trọng, và rồi họ đi vào lịch sử kinh doanh thế giới như những huyền thoại, doanh nghiệp của họ cũng vĩ đại và trường tồn.
Như vậy, với một tâm thế luôn hướng về cộng đồng, luôn khát khao làm cho xã hội quanh mình (có thể nhỏ gọn trong một ngôi làng hoặc rộng lớn bằng cả một hệ mặt trời) tốt đẹp hơn, chính họ, những doanh nhân (dù lớn hay nhỏ, dù “Tây” hay “Ta”, dù “cổ” hay “kim”) luôn được xã hội tôn vinh không phải vì số của cải khổng lồ họ kiếm được, mà vì những đóng góp vô giá của họ vào sự đổi thay của thế giới này.
Tác giả: Tiến sĩ Giản Tư Trung
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, kinh tế có một vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển chung của các quốc gia. Vì vậy, văn hóa kinh doanh chính là nền tảng cơ bản cho hoạt động kinh doanh, góp phần không nhỏ vào sự thành công của kinh doanh. “Đạo làm giàu” xưa Nhà sử học Dương Trung Quốc đã đem đến một cái nhìn tổng quát về lịch sử phát triển của thương nhân nước ta.
Ngay từ thế kỷ 15, nước ta đã có doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực gốm ( Hiện vật nổi tiếng của dòng gốm Chu Đậu hiện được trưng bày ở bảo tàng Istanbul – Thổ Nhĩ Kỳ). Những hoa văn tinh xảo trên chiếc bình gốm cổ có ghi tên người vẽ là Bùi Thị Hy.
Và cách đây không lâu, người ta đã phát hiện ra bản sao tấm bia trên mộ chí của bà. Bà là một doanh nhân lớn, ở huyện Nam Sách, tỉnh Hưng Yên, sản xuất gốm chất lượng để triều đình cống và xuất sang Trung Hoa, Nhật Bản và một số nước phương Tây.
Cuối đời bà dành nhiều tiền của làm công đức, xây cầu cống, chùa chiền, được người dân trọng vọng. Bà chết năm 1502, dân chúng thờ phụng và sùng bái. Vào thời kỳ Duy Tân, hoạt động kinh tế không chỉ dừng trên lĩnh vực buôn bán mà phát triển dịch vụ như vận tải đường sông biển của Công ty Bạch Thái Bưởi, hay sản xuất, khai khoáng, đóng tàu, sơn dầu gắn liền tên tuổi như Trương Văn Bền, Nguyễn Sơn Hà, Nguyễn Hữu Thu…
Người được coi như là sư tổ của “đạo làm giàu” là cụ cử – nhà chí sĩ Lương Văn Can. Quan điểm của cụ Lương Văn Can làm đổi thay nhận thức “khinh sự buôn bán là mạt nghệ”, làm ra cuộc cách tân “Khai dân trí – chấn dân khí – hậu dân sinh” của cuộc hội nhập lớn đầu tiên của dân tộc Việt Nam với thế giới.
Cụ cử Lương Văn Can đề cập đến chữ tín, việc không được đầu cơ nâng giá một cách trái đạo lý, việc cân đong thiếu chính xác như biểu hiện đạo đức của người thương nhân. Bên cạnh đó, việc phát huy tinh thần và lòng tự hào dân tộc thể hiện trong sự cạnh tranh cũng là một phần của “đạo làm giàu”.
Đạo kinh doanh
Với những tham luận của các doanh nhân tham dự hội thảo đã có một cách nhìn khái quát và khẳng định những doanh nhân nổi tiếng, làm thay đổi thế giới đều có phương châm, một nền tảng văn hóa và quan tâm đến lợi ích người tiêu dùng. C
hẳng hạn, một Henry Ford đã giúp thế giới xoay chuyển nhanh hơn nhờ quyết định sản xuất hàng loạt xe giá rẻ, biến ô tô từ một đồ dùng xa xỉ của giới quý tộc thành phương tiện đi lại của người dân. Hay thiên tài – nhà từ thiện lớn Bill Gates đã làm cho chiếc máy tính trở thành công cụ không thể thiếu được của xã hội hiện đại…
Thế giới đã thay đổi nhanh hơn nhờ những doanh nhân như vậy. Bằng các hoạt động kinh doanh của mình, họ vừa đem lại lợi nhuận khổng lồ cho bản thân, vừa đem đến cho thế giới những giá trị vô cùng to lớn. “Đạo kinh doanh” của những doanh nhân này là “ kiếm tiền bằng cách phụng sự xã hội”- kinh doanh vì lợi ích xã hội.
Ông Lý Quý Trung (Tổng Giám đốc Nam An Group và Phở 24) nêu rõ quan điểm về “đạo kinh doanh” của mình: “Tôn trọng chữ tín, chữ nghĩa, pháp luật, trung thực với bạn hàng, khách hàng, đồng nghiệp, nhân viên, tự trọng, có trách nhiệm với cộng đồng, đất nước…”. Tuy nhiên, ông cho biết, những điều ấy doanh nhân nào cũng hiểu nhưng khi áp dụng vào thực tiễn thì phải bàn đến “môi trường” kinh doanh có lành mạnh hay không.
Thực trạng kinh doanh thiếu lành mạnh, phớt lờ lợi ích của người tiêu dùng, chạy theo lợi nhuận hay cạnh tranh không lành mạnh trong thời gian qua cũng được các doanh nhân “mổ xẻ” và xem như bài học trong quá trình xây dựng thương hiệu, xây dựng lòng tin với khách hàng.
Trong bối cảnh hội nhập, muốn tạo dựng được “đạo kinh doanh” – văn hóa doanh nghiệp – các doanh nhân đều khẳng định rằng phải có tầm nhìn xa thì mới tránh được cám dỗ “ăn xổi ở thì”, chụp giật, hàng gian, hàng nhái…
Cùng thảo luận về đề tài này, ông Nguyễn Thành Long, Tổng Giám đốc Công ty Vàng bạc Đá quý TPHCM – SJC, cho biết: “Mục tiêu của kinh doanh không dừng lại ở việc kiếm thật nhiều tiền là phải đi xa hơn là đóng góp vào phát triển cộng đồng.
Cá nhân giàu, tập thể giàu, sẽ góp phần cho xã hội giàu mạnh. Doanh nhân với tài năng và trách nhiệm phải có bổn phận gánh vác nghĩa vụ cộng đồng, làm ra nhiều của cải cho xã hội, sẵn sàng chịu mất mát, hy sinh những lợi ích riêng vì cộng đồng, sẵn sàng dốc hết sức mình để kinh doanh thắng lợi. Đó là yếu tố chi phối toàn bộ “đạo kinh doanh”…
Theo Người lao động
Xem thêm bài liên quan
- Bài học quý giá từ Lý Gia Thành khi khách hàng hủy đơn hàng nhưng lấy lại được nhiều hơn những gì đã mất: Chỉ 6 phần là đủ
- “Vua phở” Lý Quí Trung: Kinh doanh nhà hàng, người chủ không biết nấu ăn càng tốt!
- Cụ ông U80 kiếm gần 2 tỷ mỗi năm từ sạp rau nhỏ: Tiết lộ 4 chiến lược kinh doanh “kinh điển” ai cũng có thể áp dụng